Đáp Án Đại Học Môn Văn Khối D 2010

GỢI Ý GIẢI ĐỀ VĂN D 2010

I. Phần chung

Câu I:

Tìm hiểu chung về tác phẩm
1.Xuất xứ:

Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân, in trong tập Con chó xấu xí(1962)
Tác phẩm có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư, được Kim Lân viết ngay sau cách mạng tháng Tám 1945. Truyện được khơi nguồn cảm xúc từ nạn đói khiến hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra.

2.Tình huống đặc sắc của truyện Vợ nhặt:
-Tràng là nhân vật có ngoại hình xấu, còn dở người. Lời ăn tiếng nói của Tràng cũng cộc cằn, thô kệch như chính ngoại hình của anh ta. Gia cảnh Tràng rất ái ngại. Nguy cơ ế vợ đã rõ. Đã vậy lại gặp năm đói khủng khiếp, cái chết luôn đeo bám. Trong lúc không một ai nghĩ đến chuyện vợ con ( kể cả Tràng), thì anh ta lại đột nhiên có vợ. Trong hoàn cảnh đó, Tràng “nhặt được vợ” là nhặt thêm một miệng ăn, là nhặt thêm tai học cho mình, đẩy mình gần hơn với cái chết. Vì vậy, việc Tràng có vợ là một tình huống éo le, là một nghịch cảnh vui buồn lẫn lộn, cười ra nước mắt.
– Dân xóm ngụ cư ngạc nhiên cùng bàn tán, phán đoán rồi cùng nghĩ “ biết có nuôi nỏi nhau sống qua được cái thì này không”, cùng nín lặng.
– Bà cụ tứ, mẹ Tràng lại càng ngạc nhiên hơn. Bà lão chẳng hiểu gì, rồi cúi đầu nín lặng với nỗi lo rất chung mà mà cũng rất riêng “ Biết chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”.
– Bản thân Tràng cũng bất ngờ với chính hạnh phúc của mình. Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ. Thậm chí sáng hôm sau, Tràng vẫn chưa hết bàng hoàng.
=> Tình huống truyện mà Kim Lân xây dựng vừa
bất ngờ lại vừa hợp lí.

3.Giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo và giá trị nghệ thuật.
Giá trị hiện thực:
– Tố cáo tội ác thực dân, phát xít qua bức tranh xám xịt về thảm cảnh chết đói.
– Cái đói đã bóp méo cả nhân cách con người.
– Giá trị con người bị phủ nhận khi chỉ vì cùng đường đói khát mà phải trở nên trơ trẽn, liều lĩnh, bất chấp cả e thẹn.
Giá trị nhân đạo:
– Đề cao tình người, lòng nhân ái, cưu mang đùm bọc nhau, khát vọng hướng tới sự sống và hạnh phúc.
– Đặc biệt, sự cưu mang đùm bọc của những con người nghèo đói là sức mạnh để họ vượt lên cái chết.
Giá trị nghệ thuật:
Tình huống truyện khiến diễn biến phát triển dễ dàng và làm nổi bật được những cảnh đời, những thân phận đồng thời nổi bật chủ đề tư tưởng tỏc phẩm.

4. K ết lu ận: Truyện qua việc xây dựng tình huống đặc biệt-Tràng nhặt được vợ trong cơn đói kém đã thể hiện tấm lòng nhân ái, sức sống kì diệu của con người ngay bên bờ vực thẳm của cái chết vẫn hướng về sự sống và khát khao hạnh phúc, tổ ấm gia đình.

Câu II: (tham khảo)

  1. Khái niệm:

– Đạo đức là toàn bộ các quan niệm về thiện ác lương tâm danh dự về trách nhiệm long tự trọng, công bằng hạnh phúc và những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa người với ngừơi, cá nhân với xã hội

– Đạo đức giả: Theo tôi đạo đức giả là thói nhằm hướng tới cái ác một cách trơ trẽn, một cách vô trách nhiệm nguỵ trang bằng bằng một lớp vỏ đạo đức để đánh lừa người khác.

  1. Sự nguy hại của đạo đức giả đối với con người và đời sống

– Thói đạo đức giả có mặt ở khắp mọi nơi, mọi chốn. Trong cơ quan, có những người làm việc thì qua loa tắc trách, trong lòng đầy thói ghen ghét đố kị, luôn âm mưu hãm hại người này người khác để rắp tâm thực hiện ý đồ cá nhân nhưng lại luôn mang một bộ mặt hiền nhân quân tử. Trong mối quan hệ gia đình, bạn bè, làng xóm là những mối quan hệ thân tình, trong trẻo mà nhiều khi cũng bị thói đạo đức giả len vào.

– Thói đạo đức giả rất khó bị phát giác. Người có tính nóng nảy, thô thiển hoặc có thói ích kỷ… rất dễ bị người đời chỉ mặt đặt tên. Nhưng buồn thay, thói đạo đức giả lại vẫn thường chung sống với cộng đồng một cách… vui vẻ. Con người dễ bị thói xấu này dối lừa là bởi cái mặt nạ giả nhân giả nghĩa của nó. Với vẻ bề ngoài, thói đạo đức giả cũng phô diễn vẻ đẹp của nhân cách, của luân thường đạo lý. Vì vậy dễ chiếm được sự đồng cảm của số đông. Điều khác biệt tuyệt đối là đạo đức nhằm hướng thiện còn thói đạo đức giả thực hành cái ác.

– Thói đạo đức giả là bạn đồng hành với tâm lý cả tin. Ở đâu có sự cả tin thì ở đó thói đạo đức giả còn đất sống.Đạo đức XHCN hướng con người tới tinh thần cao cả của tâm hồn, văn hóa. Bởi vậy, trong cuộc sống luôn đòi hỏi sự rèn luyện. Cảnh giác và tẩy trừ thói đạo đức giả là điều vô cùng cần thiết, trước hết là sự cảnh giác với chính bản thân mình.

Tr ích Báo Văn nghệ, số 13

II. Ph ần ri êng:

C âu III.a

1. T ác gi ả:

– Tiểu sử nhà thơ Thanh Thảo

– Xu h ư ớng ngh ệ th u ật khi l àm th ơ: lời thơ có tính tượng trưng siêu thực, gợi ra những liên tưởng đa chiều, đa nghĩa ở bạn đọc qua một hệ thống thi ảnh và ngôn từ mới mẻ

2. Bài thơ:

– sáng tác Quân khu Năm-Đà Nẵng năm 1979, được công chúng biết đến lần đầu vào năm 1985 khi tập thơ “Khối vuông ru-bích” ra đời

– bài thơ tiêu biểu cho kiểu tư duy thơ của Thanh Thảo

3. Thân bài:
Để hiểu bài thơ trước hết ta phải hiểu về nhân vật Phi-đe-ri-co Gar-xi-a Lor-ca (1898-1936). Ông là một tài năng sáng chói của văn học Tây Ban Nha hiện đại, được xem là thần đồng có năng khiếu thiên bẩm về thơ ca, hội hoạ, âm nhạc, sân khấu, … Sau khi tốt nghiệp Đại học Luật năm 1919, Lor-ca lên thủ đô Madrit hoạt động nghệ thuật, trong bối cảnh đất nước Tây Ban Nha bị bao trùm bởi bầu không khí ngột ngạt của chế độ cai trị độc tài Pri-nô-đê Ri-vê-ra. Lor-ca nồng nhiệt cổ vũ nhân dân đấu tranh với mọi thế lực áp chế, đòi quyền sống chính đáng, vừa khởi xướng và thúc đẩy mạnh mẽ những cách tân trong các lĩnh vực nghệ thuật. Vì thế, năm 1936, chế độ phản động thân phát xít đã thủ tiêu Lor-ca. Từ đó, tên tuổi Lor-ca đã trở thành một biểu tượng, một ngọn cờ tập hợp các nhà văn hoá Tây Ban Nha và thế giới đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ văn hoá dân tộc và văn minh nhân loại.

Với nhà thơ Thanh Thảo, ông đã mang trong ba lô ra chiến trường những bài thơ của Lor-ca, qua bản dịch của Hoàng Hưng, chép trong sổ tay như ông tâm sự “Thực ra Lor-ca đã sống trong tôi từ những năm 1969-1970 qua bản dịch chép tay mà chúng tôi truyền cho nhau… Và tôi đã viết “Đàn ghi ta của Lor-ca” trong cái ngày rầu rầu của năm 1979 ấy. Bài thơ được viết rất nhanh và hầu như không sửa chữa gì thêm” (Văn học và tuổi trẻ, số tháng 3/2009). Thanh Thảo nói thêm: “tôi viết bài thơ trong trạng thái không nghĩ ngợi gì, một trạng thái mà vô thức chiếm lĩnh tôi trọn vẹn”. Điều này chứng tỏ Lor-ca đã ám ảnh tâm thức của Thanh Thảo trong một thời gian dài, đến ngưỡng cảm hứng, thì tự nhiên bài thơ đã ngân vang như một khúc giao hưởng trầm buồn với phần đệm là những giọt âm thanh luyến láy thiết tha li-la li-la li-la ngân lên từ cây ghi ta cổ điển.

những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la li-la

đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn

Mở đầu cho bài thơ của mình, Thanh Thảo giới thiệu với bạn đọc hình ảnh người nghệ sĩ Lor-ca qua những âm thanh, sắc màu, hình ảnh có tính tượng trưng, gợi liên tưởng đa chiều. Ấn tượng về những tiếng đàn bọt nước sao quá mỏng manh, như người nghệ sĩ Lor-ca chỉ với cây ghi ta và vần thơ mang theo khát vọng tự do dân chủ, một mình chiến đấu với bè lũ Phrăng-cô độc tài phát xít. Đây quả là một sự tương phản khắc nghiệt giữa “tiếng đàn bọt nước” với “áo choàng đỏ gắt”, gợi ra khung cảnh một đấu trường giữa võ sĩ với bò tót. Nhưng đây không hề là cuộc đấu để khẳng định sức mạnh của cơ bắp, mà là một cuộc chiến đấu giữa khát vọng dân chủ của công dân Lor-ca với nền chính trị độc tài, của khát vọng cách tân nghệ thuật của chàng nghệ sĩ tâm huyết tài năng Lor-ca với nền nghệ thuật cằn cỗi già nua. Dù ở cương vị nào, chúng ta cũng nhận ra đây là cuộc đấu không cân sức, Lor-ca đang rất đơn độc trên hành trình lí tưởng gian nan, soi bóng lẻ loi giữa con đường đời đầy nguy hiểm mà chỉ có cây đàn, tiếng hát hộ thân.

Trong cuộc đấu khốc liệt này, Lor-ca luôn bị ám ảnh về cái chết, nhưng không ngờ nó lại đến với ông quá sớm, đến ở cái tuổi ba tám, tuổi con người đang vào độ phát tiết tinh hoa! “Con chim hoạ mi Tây Ban Nha” không còn lên tiếng hót. Thanh Thảo đã cất lên lời thơ đầy xót tiếc ngậm ngùi:

Tây Ban Nha
hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lor-ca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du

Lời thơ vang lên là một chuỗi tự sự, nhưng cấu trúc lại đứt đoạn như để nhằm diễn tả cuộc đời Lor-ca “nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương”. Hình ảnh thơ tả thực “áo choàng bê bết đỏ” đã phản ánh hiện thực phũ phàng, tàn khốc đổ xuống đời Lor-ca. Cái chết bi thảm của Lor-ca là một sự kiện chính trị lớn ở Tây Ban Nha. Nó tạo ra một hiệu ứng dây chuyền, được Thanh Thảo diễn tả theo lối tượng trưng độc đáo:

tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta ròng ròng
máu chảy

Lá bùa hộ mệnh rồi cũng đến lúc không cần nữa, trái tim của bất cứ ai rồi cũng đến lúc bất chợt lặng yên, chỉ khác nhau là nó đến sớm hay muộn đối với mỗi cuộc đời. Riêng Lor-ca, dù nhịp tim của nhà thơ không còn đập nữa, nhưng dư ba con sóng thơ cùng với giai điệu tiếng đàn ghi ta li-la li-la li-la tha thiết mang theo khát vọng tự do và cách tân nghệ thuật của ông, tin rằng nó sẽ được cộng hưởng lan toả trong không – thời gian, neo đậu lâu dài trong tình cảm mến mộ của công chúng yêu nghệ thuật và trân trọng tự .

(Theo Nguyễn Tống -GV Trường Quốc Học Huế )

C âu III.b

Ý ngh ĩa b át ch áo h ánh c ủa Th ị N ở:

– thoát khỏi trận ốm đang hoành hành và  là liều thuốc giải độc cho nhưng quãng đời tội lỗi của Chí Phèo ngày xưa. Bát cháo đầy tình yêu thương của Thị đã giúp Chí lột đi vỏ quỷ để trở lại làm người. Tuy nhiên cái ngọt của bát cháo hành cũng làm tăng thêm bi kịch mồ côi của Chí Phèo.

– Hương vị bát cháo hành cũng là hương vị của tình yêu Thị Nở

Vì vậy, bát cháo hành của Thị chất chứa tình yêu thương chân thành của mụ đã biến Chí thành một con người khác hẳn, biến Chí từ một thằng lưu manh chuyên rạch mặt ăn vạ thành một người dân lương thiện, hiền lành với biết bao những cảm xúc, nghĩ suy của một con người.

Ý ngh ĩa chi ti ết “ấm n ư ớc đ ầy v à n ứ ơc h ãy c òn ấm” c ủa nh ân v ật T ừ d ành cho H ộ trong Đ ời Th ừa:

Đáp Án Đại Học Môn Văn Khối D 2010

Đáp án môn Văn khối D Đại học năm 2010

I. Phần chung

Câu I:

Tìm hiểu chung về tác phẩm
1.Xuất xứ:
Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân, in trong tập Con chó xấu xí(1962)
Tác phẩm có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư, được Kim Lân viết ngay sau cách mạng tháng Tám 1945. Truyện được khơi nguồn cảm xúc từ nạn đói khiến hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra.

2.Tình huống đặc sắc của truyện Vợ nhặt:
-Tràng là nhân vật có ngoại hình xấu, còn dở người. Lời ăn tiếng nói của Tràng cũng cộc cằn, thô kệch như chính ngoại hình của anh ta. Gia cảnh Tràng rất ái ngại. Nguy cơ ế vợ đã rõ. Đã vậy lại gặp năm đói khủng khiếp, cái chết luôn đeo bám. Trong lúc không một ai nghĩ đến chuyện vợ con ( kể cả Tràng), thì anh ta lại đột nhiên có vợ. Trong hoàn cảnh đó, Tràng “nhặt được vợ” là nhặt thêm một miệng ăn, là nhặt thêm tai học cho mình, đẩy mình gần hơn với cái chết. Vì vậy, việc Tràng có vợ là một tình huống éo le, là một nghịch cảnh vui buồn lẫn lộn, cười ra nước mắt.
– Dân xóm ngụ cư ngạc nhiên cùng bàn tán, phán đoán rồi cùng nghĩ “ biết có nuôi nỏi nhau sống qua được cái thì này không”, cùng nín lặng.
– Bà cụ tứ, mẹ Tràng lại càng ngạc nhiên hơn. Bà lão chẳng hiểu gì, rồi cúi đầu nín lặng với nỗi lo rất chung mà mà cũng rất riêng “ Biết chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”.
– Bản thân Tràng cũng bất ngờ với chính hạnh phúc của mình. Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ. Thậm chí sáng hôm sau, Tràng vẫn chưa hết bàng hoàng.
=> Tình huống truyện mà Kim Lân xây dựng vừa bất ngờ lại vừa hợp lí.

3.Giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo và giá trị nghệ thuật.
Giá trị hiện thực:
– Tố cáo tội ác thực dân, phát xít qua bức tranh xám xịt về thảm cảnh chết đói.
– Cái đói đã bóp méo cả nhân cách con người.
– Giá trị con người bị phủ nhận khi chỉ vì cùng đường đói khát mà phải trở nên trơ trẽn, liều lĩnh, bất chấp cả e thẹn.
Giá trị nhân đạo:
– Đề cao tình người, lòng nhân ái, cưu mang đùm bọc nhau, khát vọng hướng tới sự sống và hạnh phúc.
– Đặc biệt, sự cưu mang đùm bọc của những con người nghèo đói là sức mạnh để họ vượt lên cái chết.
Giá trị nghệ thuật:
Tình huống truyện khiến diễn biến phát triển dễ dàng và làm nổi bật được những cảnh

đời, những thân phận đồng thời nổi bật chủ đề tư tưởng tỏc phẩm.

4. K ết lu ận: Truyện qua việc xây dựng tình huống đặc biệt-Tràng nhặt được vợ trong cơn đói kém đã thể hiện tấm lòng nhân ái, sức sống kì diệu của con người ngay bên bờ vực thẳm của cái chết vẫn hướng về sự sống và khát khao hạnh phúc, tổ ấm gia đình.

Câu II: (tham khảo)

Khái niệm:

– Đạo đức là toàn bộ các quan niệm về thiện ác lương tâm danh dự về trách nhiệm long tự trọng, công bằng hạnh phúc và những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa người với ngừơi, cá nhân với xã hội

– Đạo đức giả: Theo tôi đạo đức giả là thói nhằm hướng tới cái ác một cách trơ trẽn, một cách vô trách nhiệm nguỵ trang bằng bằng một lớp vỏ đạo đức để đánh lừa người khác.

Sự nguy hại của đạo đức giả đối với con người và đời sống

– Thói đạo đức giả có mặt ở khắp mọi nơi, mọi chốn. Trong cơ quan, có những người làm việc thì qua loa tắc trách, trong lòng đầy thói ghen ghét đố kị, luôn âm mưu hãm hại người này người khác để rắp tâm thực hiện ý đồ cá nhân nhưng lại luôn mang một bộ mặt hiền nhân quân tử. Trong mối quan hệ gia đình, bạn bè, làng xóm là những mối quan hệ thân tình, trong trẻo mà nhiều khi cũng bị thói đạo đức giả len vào.

– Thói đạo đức giả rất khó bị phát giác. Người có tính nóng nảy, thô thiển hoặc có thói ích kỷ… rất dễ bị người đời chỉ mặt đặt tên. Nhưng buồn thay, thói đạo đức giả lại vẫn thường chung sống với cộng đồng một cách… vui vẻ. Con người dễ bị thói xấu này dối lừa là bởi cái mặt nạ giả nhân giả nghĩa của nó. Với vẻ bề ngoài, thói đạo đức giả cũng phô diễn vẻ đẹp của nhân cách, của luân thường đạo lý. Vì vậy dễ chiếm được sự đồng cảm của số đông. Điều khác biệt tuyệt đối là đạo đức nhằm hướng thiện còn thói đạo đức giả thực hành cái ác.

– Thói đạo đức giả là bạn đồng hành với tâm lý cả tin. Ở đâu có sự cả tin thì ở đó thói đạo đức giả còn đất sống.Đạo đức XHCN hướng con người tới tinh thần cao cả của tâm hồn, văn hóa. Bởi vậy, trong cuộc sống luôn đòi hỏi sự rèn luyện. Cảnh giác và tẩy trừ thói đạo đức giả là điều vô cùng cần thiết, trước hết là sự cảnh giác với chính bản thân mình.

Tr ích Báo Văn nghệ, số 13

II. Ph ần ri êng:

C âu III.a

1. T ác gi ả:

– Tiểu sử nhà thơ Thanh Thảo

– Xu h ư ớng ngh ệ th u ật khi l àm th ơ: lời thơ có tính tượng trưng siêu thực, gợi ra những liên tưởng đa chiều, đa nghĩa ở bạn đọc qua một hệ thống thi ảnh và ngôn từ mới mẻ

2. Bài thơ:

– sáng tác Quân khu Năm-Đà Nẵng năm 1979, được công chúng biết đến lần đầu vào năm 1985 khi tập thơ “Khối vuông ru-bích” ra đời

– bài thơ tiêu biểu cho kiểu tư duy thơ của Thanh Thảo

3. Thân bài:
Để hiểu bài thơ trước hết ta phải hiểu về nhân vật Phi-đe-ri-co Gar-xi-a Lor-ca (1898-1936). Ông là một tài năng sáng chói của văn học Tây Ban Nha hiện đại, được xem là thần đồng có năng khiếu thiên bẩm về thơ ca, hội hoạ, âm nhạc, sân khấu, … Sau khi tốt nghiệp Đại học Luật năm 1919, Lor-ca lên thủ đô Madrit hoạt động nghệ thuật, trong bối cảnh đất nước Tây Ban Nha bị bao trùm bởi bầu không khí ngột ngạt của chế độ cai trị độc tài Pri-nô-đê Ri-vê-ra. Lor-ca nồng nhiệt cổ vũ nhân dân đấu tranh với mọi thế lực áp chế, đòi quyền sống chính đáng, vừa khởi xướng và thúc đẩy mạnh mẽ những cách tân trong các lĩnh vực nghệ thuật. Vì thế, năm 1936, chế độ phản động thân phát xít đã thủ tiêu Lor-ca. Từ đó, tên tuổi Lor-ca đã trở thành một biểu tượng, một ngọn cờ tập hợp các nhà văn hoá Tây Ban Nha và thế giới đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ văn hoá dân tộc và văn minh nhân loại.

Với nhà thơ Thanh Thảo, ông đã mang trong ba lô ra chiến trường những bài thơ của Lor-ca, qua bản dịch của Hoàng Hưng, chép trong sổ tay như ông tâm sự “Thực ra Lor-ca đã sống trong tôi từ những năm 1969-1970 qua bản dịch chép tay mà chúng tôi truyền cho nhau… Và tôi đã viết “Đàn ghi ta của Lor-ca” trong cái ngày rầu rầu của năm 1979 ấy. Bài thơ được viết rất nhanh và hầu như không sửa chữa gì thêm” (Văn học và tuổi trẻ, số tháng 3/2009). Thanh Thảo nói thêm: “tôi viết bài thơ trong trạng thái không nghĩ ngợi gì, một trạng thái mà vô thức chiếm lĩnh tôi trọn vẹn”. Điều này chứng tỏ Lor-ca đã ám ảnh tâm thức của Thanh Thảo trong một thời gian dài, đến ngưỡng cảm hứng, thì tự nhiên bài thơ đã ngân vang như một khúc giao hưởng trầm buồn với phần đệm là những giọt âm thanh luyến láy thiết tha li-la li-la li-la ngân lên từ cây ghi ta cổ điển.

những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la li-la

đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn

Mở đầu cho bài thơ của mình, Thanh Thảo giới thiệu với bạn đọc hình ảnh người nghệ sĩ Lor-ca qua những âm thanh, sắc màu, hình ảnh có tính tượng trưng, gợi liên tưởng đa chiều. Ấn tượng về những tiếng đàn bọt nước sao quá mỏng manh, như người nghệ sĩ Lor-ca chỉ với cây ghi ta và vần thơ mang theo khát vọng tự do dân chủ, một mình chiến đấu với bè lũ Phrăng-cô độc tài phát xít. Đây quả là một sự tương phản khắc nghiệt giữa “tiếng đàn bọt nước” với “áo choàng đỏ gắt”, gợi ra khung cảnh một đấu trường giữa võ sĩ với bò tót. Nhưng đây không hề là cuộc đấu để khẳng định sức mạnh của cơ bắp, mà là một cuộc chiến đấu giữa khát vọng dân chủ của công dân Lor-ca với nền chính trị độc tài, của khát vọng cách tân nghệ thuật của chàng nghệ sĩ tâm huyết tài năng Lor-ca với nền nghệ thuật cằn cỗi già nua. Dù ở cương vị nào, chúng ta cũng nhận ra đây là cuộc đấu không cân sức, Lor-ca đang rất đơn độc trên hành trình lí tưởng gian nan, soi bóng lẻ loi giữa con đường đời đầy nguy hiểm mà chỉ có cây đàn, tiếng hát hộ thân.

Trong cuộc đấu khốc liệt này, Lor-ca luôn bị ám ảnh về cái chết, nhưng không ngờ nó lại đến với ông quá sớm, đến ở cái tuổi ba tám, tuổi con người đang vào độ phát tiết tinh hoa! “Con chim hoạ mi Tây Ban Nha” không còn lên tiếng hót. Thanh Thảo đã cất lên lời thơ đầy xót tiếc ngậm ngùi:

Tây Ban Nha
hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lor-ca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du

Lời thơ vang lên là một chuỗi tự sự, nhưng cấu trúc lại đứt đoạn như để nhằm diễn tả cuộc đời Lor-ca “nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương”. Hình ảnh thơ tả thực “áo choàng bê bết đỏ” đã phản ánh hiện thực phũ phàng, tàn khốc đổ xuống đời Lor-ca. Cái chết bi thảm của Lor-ca là một sự kiện chính trị lớn ở Tây Ban Nha. Nó tạo ra một hiệu ứng dây chuyền, được Thanh Thảo diễn tả theo lối tượng trưng độc đáo:

tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta ròng ròng
máu chảy

Lá bùa hộ mệnh rồi cũng đến lúc không cần nữa, trái tim của bất cứ ai rồi cũng đến lúc bất chợt lặng yên, chỉ khác nhau là nó đến sớm hay muộn đối với mỗi cuộc đời. Riêng Lor-ca, dù nhịp tim của nhà thơ không còn đập nữa, nhưng dư ba con sóng thơ cùng với giai điệu tiếng đàn ghi ta li-la li-la li-la tha thiết mang theo khát vọng tự do và cách tân nghệ thuật của ông, tin rằng nó sẽ được cộng hưởng lan toả trong không – thời gian, neo đậu lâu dài trong tình cảm mến mộ của công chúng yêu nghệ thuật và trân trọng tự .

(Theo Nguyễn Tống -GV Trường Quốc Học Huế )

C âu III.b

Ý ngh ĩa b át ch áo h ánh c ủa Th ị N ở:

– thoát khỏi trận ốm đang hoành hành và  là liều thuốc giải độc cho nhưng quãng đời tội lỗi của Chí Phèo ngày xưa. Bát cháo đầy tình yêu thương của Thị đã giúp Chí lột đi vỏ quỷ để trở lại làm người. Tuy nhiên cái ngọt của bát cháo hành cũng làm tăng thêm bi kịch mồ côi của Chí Phèo.

– Hương vị bát cháo hành cũng là hương vị của tình yêu Thị Nở

Vì vậy, bát cháo hành của Thị chất chứa tình yêu thương chân thành của mụ đã biến Chí thành một con người khác hẳn, biến Chí từ một thằng lưu manh chuyên rạch mặt ăn vạ thành một người dân lương thiện, hiền lành với biết bao những cảm xúc, nghĩ suy của một con người.

Đáp Án môn Văn khối C Đại học Năm 2010